Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 70, Malaysia đã sử
dụng lao động nước ngoài;
Theo số liệu thống kê của vùng Penusular và 2 vùng phía
Đông Malaysia là Sabah và Sarawak thì số lượng lao động nước ngoài từ đầu những năm
70 tăng một cách đáng kể. Năm 1993 số lượng lao động xấp xỉ nửa triệu và năm
1997 đã tăng lên hơn 1,47 triệu. Tuy nhiên, theo ước tính của Chính phủ, số lượng
lao đông nước ngoài thậm chí còn cao hơn, trên 1,7 triệu người. Khi xảy ra khủng
hoảng kinh tế vào giữa năm 1997, nhiều lao động nước ngoài không có việc làm và
phải hồi hương. Nhiều biện pháp được đưa ra để giảm dòng lao động kể cả việc
tuyển dụng có chọn lọc (nhu cầu nhận lao động nước ngoài trong một số lĩnh vực),
tăng thuế việc làm hàng năm và thắt chặt các điều kiện đối với việc bảo đảm cho
lao động nước ngoài. Các giải pháp này đã làm giảm 20% số lượng lao động nước
ngoài vào năm 1999, nhưng không có nghĩa là số lượng tuyệt đối lao động nước
ngoài đã thực sự giảm ở mức trên. Một số người đã chọn giải pháp không gia hạn
giấy phép việc làm và gia nhập vào đội ngũ lao động bất hợp pháp;
Theo thống kê của Cục Việc làm thì năm 1999 có hơn 1,6
triệu lao động nước ngoài làm việc tại Malaysia, chiếm 7,6% dân số, 11,4% lực
lượng lao động và 11,6% chỗ làm việc ở Malaysia;
Lao động nước ngoài tập trung chủ yếu vùng Penusular đặc
biệt ở vùng thành thị và các khu công nghiệp ở thung lũng Kelang, thủ đô Kuala
Lumpur, trung tâm công nghiệp, thương mại và hành chính là mục tiêu chủ yếu của
lao động nhập cư. Số lao động nước ngoài ở đây chiếm gần 70% tổng số lao động
nước ngoài trên toàn lãnh thổ Malaysia .
Bang Sabah cũng vậy, ở một vài huyện trong
bang như bờ biển phía Đông, số lượng lao động nước ngoài vượt quá cả số dân địa
phương. Riêng bang Sarawak , số lượng lao động
nhập cư tương đối thấp;
Hiện tại Malaysia
đang phải đối phó với sự thiếu hụt lao động trong một số lĩnh vực kinh tế, đặc
biệt là trong lĩnh vực trồng trọt và xây dựng;
Chính phủ Malaysia
chỉ cho phép nhận lao động của các nước là Inđônêsia, Thái Lan, Philippin , Bangladesh ,
Pakistan và Việt Nam . Song lao động
của các quốc gia khác cũng được phép nhập cư trên cơ sở lựa chọn tuỳ theo yêu cầu
của công việc;
Tình hình sử dụng lao động nước ngoài trong các lĩnh vực
kinh tế thay đổi trong hơn thập kỷ qua. Năm 1993, số lượng lao động nước ngoài
lớn nhất là trong lĩnh vực trồng trọt (37,6%), tiếp theo là xây dựng (34,6%) và
dịch vụ gia đình (20,1%). Năm 1998, số lượng lao động nước ngoài làm việc trong
lĩnh vực sản xuất (29,2%) là lớn nhất, tiếp theo là đồn điền (22,3%) và xây dựng
(21,6%). Đồng thời, sự tham gia của lao động nước ngoài trong khu vực dịch vụ
tăng gấp 10 lần , nhưng trong dịch vụ gia đình lại giảm một cách đáng kể . Sự
thay đổi này phản ánh sự phát triển của một số lĩnh vực và chính sách chuyển hướng
của Chính phủ đối với lao động nước ngoài. Chính phủ cho phép người sử dụng lao
động được tuyển lao động nước ngoài nhưng số lượng không quá 30% tổng số lực lượng
trong đơn vị;
Hiện nay, nhiều lao động nữ nước ngoài làm việc trong
lĩnh vực sản xuất như khu công nghiệp Sabery Jaya ở Penang cũng có sự phân chia
lĩnh vực công việc dựa trên quốc tịch và dân tộc do hai yếu tố: trước tiên là sự
khác nhau về đào tạo giữa lao động ở các nước khác nhau; thứ hai là phương thức
tuyển dụng thông qua hệ thống lao động đang tồn tại trong xã hội. Nói chung,
người Inđônêsia học vấn thấp, làm việc trong lĩnh vực trồng trọt và xây dựng;
người Bangladesh
làm việc trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo. Số lượng lao động Thái Lan tương đối
ít và chủ yếu làm việc trong lĩnh vực xây dựng và trồng trọt. Người Philippin ở
phía Tây Malaysia chủ yếu là
lao động nữ tham gia vào công việc dịch vụ gia đình; một số ít làm việc trong
lĩnh vực sản xuất, còn một số ở vùng Sabah làm
việc ở lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp;
Cung với sự hồi phục kinh tế vào cuối năm 1999, tỷ lệ thất
nghiệp ở Malaysia đã giảm từ 3,2% xuống 3%; hiện nay vấn đề chính thức không phải
là không có việc làm mà là sự mất cân đối giữa lực lượng lao động hiện có và chỗ
việc làm. Tháng 9/1999, số việc làm đã vượt trội số lượng người đăng ký tìm việc
làm mới. Phần lớn các công việc được ưa thích là công việc văn phòng, số người
đăng ký cao gấp 6 lần số chỗ việc làm còn trống. Công việc ít người thích nhất
là lĩnh vự nông nghiệp, chỉ có 19 người đăng ký so với hơn 2.224 chỗ việc làm.
Trong lĩnh vực sản xuất, số lượng chỗ việc làm gấp 2 lần số người đăng ký. Sự mất
cân đối này là đặc điểm cố hữu của thị trường Malaysia . Để giải quyết trước mắt sự
thiếu hụt lao động, Chính phủ cho phép nhập khẩu lao động nước ngoài trong lĩnh
vực trồng trọt và sản xuất. Về lâu dài, Chính phủ hy vọng khuyến khích các
nghành công nghiệp cơ khí hoá nhằm làm giảm nhu cầu lực lượng lao động. Để chuẩn
bị cho vấn đề này, Chính phủ đã tiến hành các bước nhằm tăng nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn, quản lý, kỹ thuật, có tay nghề. Biện pháp trước mắt là thực
hiện mục tiêu thu hút kiều dân Malaysia
nhằm đào tạo lao động địa phương trong thời gian họ làm việc tại Malaysia .
Theo
http://licogimec.com.vn/chi-tiet-tin/205/tinh-hinh-nhap-cu-lao-dong-nuoc-ngoai-cua-malaysia.html